29 tháng 1 2016

Ai thắng?

Ông Nguyễn Phú Trọng đã thắng trong cuộc đua về chiếc ghế Tổng Bí Thư ĐCS. Ông Trọng có biệt danh là "Trọng Lú", vậy thì ông có lú không? Và, tại sao ông Nguyễn Tấn Dũng, người mà trước đây, tưởng chừng như chiếc ghế TBT đã ghi tên ông và chỉ cần ông đến là có thể chễm chệ ngồi vào, lại phải "xin rút" tên trong danh sách ứng cử?

Ngược lại với mấy năm trước, khi mà Vinashin chìm xuồng, ông Dũng tưởng như phải bị kỷ luật, nhưng đến lúc phải đem ra hội nghị mổ xẻ, thì trong khi ông Dũng điềm nhiên ngồi khảy móng tay, ông Trọng đã không dám gọi thẳng tên ông Dũng. Sau đó Dũng được Trương Tấn Sang đặt cho biệt danh là "Đồng chí X.". Trước đại hội đảng 12, có người đã nói rằng ông Dũng là Thủ Tướng có nhiều quyền hạn nhất, và ngược lại ông Trọng là TBT ít quyền hạn nhất, trong lịch sử đảng CSVN.

Vậy thì chuyện gì đã xảy ra? Câu trả lời tương đối rõ ràng có lẽ phải đợi nhiều năm nữa, khi mà một số thông tin được bạch hóa, và khoảng vài chục cuốn hồi ký ra đời, thì sự đấu đá khốc liệt trong thâm cung của đảng CS mới có thể một phần nào được hé lộ. Người viết bài này chỉ chia sẻ một vài suy nghĩ để rộng đường dư luận.

Ông Trọng đã tuyên bố Tổng Bí Thư (TBT) phải là người miền Bắc và phải là người có lý luận. Không kể đến tác hại của tuyên bố này đối với sự đoàn kết dân tộc sau hơn hai thế kỷ bị chia cắt vì thuộc địa và nội chiến, tuyên bố đó rõ ràng phản ánh sự chia rẽ và phân biệt vùng miền trong nội bộ ĐCS. Đối với ông Trọng mà nói, nó có lợi cho ông trong việc lôi kéo các đảng viên gốc miền Bắc về phía ông, và đặt ông Dũng ở thế đối đầu với họ. 

Tuyên bố đó coi như một lời tuyên chiến giữa hai ông Trọng và Dũng trước thềm đại hội. Chia rẽ là kẻ thù của sự hợp tác và phát triển, nhưng nó thường xuyên được sử dụng như là một vũ khí của những chính trị gia. Trước mắt bàn dân thiên hạ thì ông Trọng có vẻ như "lú" càng "lú" hơn khi tuyên bố như vậy, nhưng đối với nội bộ ĐCS thì coi như sau một tiếng chuông mở màn cho hai võ sĩ quyền anh thượng đài, ông Trọng đã đánh trước một cú "direct" (cú đấm thẳng trực tiếp). 

Trong khi đó ông Dũng được biết đến như là một người cấp tiến, thân Mỹ, có thể trở thành một Putin phiên bản Việt Nam. Sau vụ Vinashin, ông Dũng trở nên như một nhân vật bất khả xâm phạm. Thực tế cho thấy, ông Dũng sau những năm tháng trong các chức vụ khác nhau đã tạo nên một hệ thống quyền lực chằng chịt, một đế chế Mafia. Ở đó, quyền lực có thể được phân chia cho những thuộc cấp tin tưởng và thân nhân gia đình; nhưng trụ cột chính, mũi nhọn quyền lực vẫn phải nằm trong tay một "Bố Già".

Nguyễn Tấn Dũng và Tập Cận Bình
Người ta nói ông Dũng thân Mỹ và Tây Phương, nhưng thực ra ông được tập thể các nhân vật nặng ký trong Đảng giao nhiệm vụ làm gạch nối (chính) giữa ĐCSVN với thế giới tư bản; và ông Dũng đã lợi dụng điều này để mở rộng quyền hạn đế chế của riêng ông, cũng như củng cố lợi ích những phe nhóm có liên hệ hay chịu ảnh hưởng. 

Điều đó cũng phản ánh chính sách ngoại giao đu dây của ĐCSVN, một chính sách nhằm kéo dài sự tồn tại của của ĐCS hơn là một chiến lược dài hạn nhằm vào sự phát triển đất nước. Bản thân các ông Dũng, Trọng cũng không muốn bị cho là đứng hẳn về một phía: hoặc Mỹ hoặc Trung Cộng. Ông Trọng vẫn thăm dò sự ủng hộ của Mỹ khi viếng thăm chính thức TT Obama. 

Và, trong khi ông Tập Cận Bình thăm Việt Nam, ông Dũng đã muốn chứng minh rằng ông cũng được sự ủng hộ của ông Tập qua việc hai ông "ôm qua ôm lại" đến ba lần khi gặp nhau ở VN mấy tháng trước đây. Cho dù là bản thân của các ông, khi ôm nhau như vậy, đã không phải ngây thơ đến nỗi tin tưởng rằng sẽ "sống chết có nhau", nhưng "diễn được thì cứ diễn", tại sao lại từ chối việc "tương kế tựu kế".

Đối với Trung Cộng, mà người đại diện là ông Tập, thì việc lựa chọn giữa ông Dũng và ông Trọng không phải là một câu hỏi khó khăn. Tại sao không chọn cho "người anh em" một ông già lèm nhèm, tham quyền cố vị, không có quyết sách, giỏi việc hậu trường, trung thành với thiên triều; mà phải ủng hộ cho một người giảo hoạt hơn, có khuynh hướng thân Mỹ hơn và đã từng lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ chủ quyền Việt nam đối với các vùng biển và quần đảo Hoàng-Trường Sa. 

Câu trả lời là dễ dàng và dứt khoát; cho dầu cách đây một thập niên, chính họ đã ủng hộ cho ông Dũng vào các chức vụ quan trọng vì tin tưởng ông này sẽ thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế hai nước (và ông này đã thi hành khá nghiêm chỉnh). Trong khi Mỹ không ủng hộ ông Dũng, như vụ đảo chánh năm 1963; và ông Trọng được sự ủng hộ của Bắc Kinh, thì ông Dũng không có cách nào an toàn hơn là đi phía sau ông Trọng.

Ông Dũng nên sớm hiểu là ông đã hết giá trị sử dụng đối với Trung Cộng, vì những người thay ông sẽ mở đường mạnh hơn và rộng hơn cho sự xâm lược của Trung Cộng vào Việt Nam bằng cả hai cách ngấm ngầm và công khai. Người ký bản án tử hình cho sự nghiệp chính trị của ông Dũng, không phải là một ông già đang say men chiến thắng ở gần hồ con Rùa vừa chết, mà chính là đồng chí Tổng Bí Thư kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Đội Trung Cộng Tập Cận Bình, người vừa nồng nhiệt ôm ông Dũng cách đây không lâu. 

Việc ông Nguyễn Sinh Hùng sang yết kiến ông Tập trước ngày đại hội ĐCS không có gì khác hơn là khẳng định lần cuối cùng sự tồn tại của một bản án như vậy đối với đồng chí X. Có thể nói người thắng cuộc trong cuộc đấu đá vừa rồi trong nội bộ ĐCS VN không phải là một ông "chánh tổng" đang bắn pháo bông ở Bắc Bộ Phủ, mà chính là ông Tổng Chánh ở Trung Nam Hải.

Đồng chí Tổng khẳng định thêm sự ủng hộ của Bắc Kinh cho phe của ông Trọng bằng cách cho tàu đánh cá trá hình và giàn khoan áp sát Vịnh Bắc Bộ và cho máy bay gầm rú trên không phận Việt Nam trước thềm ĐHĐ cũng vừa để đo lường sức mạnh quyền lực và quyết tâm của ông Dũng, cũng như thăm do phản ứng cứng rắn của CSVN nói chung. 

Thực tế cho thấy là chính phủ Việt Nam chỉ phản ứng có lệ, và ông Dũng cũng không khẳng định sức mạnh quyền lực và quyết tâm bảo vệ chủ quyền như đã từng tuyên bố. Thực ra thì ông không thể có đủ thời gian để đối phó với quá nhiều mũi tấn công trong một thời gian ngắn như vậy. Mô hình "đế chế Mafia" có khả năng bảo đảm uy thế của ông đối với hệ thống mà ông tạo ra không có khả năng bảo vệ ông đối với đòn "đánh hội đồng, có hậu thuẫn" mà phe ông Trọng và Bắc Kinh tiến hành.

Nhưng chỉ như vậy không cũng chưa đủ, phe ông Trọng đã âm thầm chiêu dụ các "tướng tá" trong hàng ngũ của ông Dũng, trong số đó ông Phúc được nhắm đến đầu tiên, vì là người "cực kỳ" giảo hoạt và tham vọng, mặc dù ông đã chứng minh sự trung thành giai đoạn của mình đối với ông Dũng trong việc hạ gục ông Nguyễn Bá Thanh. 

Ông Nguyễn Xuân Phúc, người được cho là sẽ thay ông Dũng sau khi ông Dũng chính thức về vườn, đã từng là một cộng sự, cánh tay đắc lực của ông Dũng. Với mục tiêu là ông Dũng, phe ông Trọng có thể thỏa thuận ngay cả với lãnh chúa của địa ngục. 

Ông Trần Đại Quang, cũng nằm trong tầm ngắm này, và khi gió đã có vẻ đổi chiều, ông Quang không thể không dương buồm theo hướng gió. Những ngày trước đại hội, Hà Nội rung chuyển với "lực lượng chống khủng bố, bảo vệ ĐHĐ". Những bệnh nhân tâm thần cũng không tin là khủng bố Hồi Giáo lại rảnh đến độ đi tấn công ĐHĐ CSVN. 

"Các thế lực thù địch" thì không đủ mạnh để làm chuyện đó, và phe ông Trọng cũng không cho ông Dũng thấy là ông Dũng "bị dồn vào góc tường" để phải chọn một sinh lộ cuối cùng trong tử địa. Cuộc hành binh bảo vệ ĐHĐ không có gì khác hơn là chứng tỏ sự mất kiểm soát của ông Dũng đối với công an và quân đội. Lẽ tất nhiên là ông Dũng không đơn phương chủ trương cuộc hành binh này để có thể bị rớt ngay xuống thung lũng tử thần.

Nhưng tại sao một đế chế Mafia của ông Dũng có thể tê liệt nhanh như vậy, cho dù nó đã rất hữu hiệu trong vụ Vinashin. Câu trả lời, theo người viết, vẫn là ở ông Tổng, xin lặp lại: ông Tổng Chánh Tập Cận Bình chứ không phải ông chánh tổng Nguyễn Phú Trọng. 

Tình báo Hoa Nam đã thâm nhập đến mọi ngóc ngách quyền lực của cả hai phe: Trọng và Dũng, và khi được bật đèn xanh thì họ muốn bên nào thắng thì bên đó có muốn hy sinh chọn thua cũng không được cho phép. Cho dù ông Dũng có cho đàn em phủ đầu ông Trọng trong kỳ họp đầu tiên rằng ông Trọng bán đất biển cho Tàu, làm tay sai cho Trung Cộng v.v... thì với sự giúp đỡ của tình báo Hoa Nam, phía ông Trọng cũng đã chuẩn bị cáo trạng dài hơn 300 trang về các hoạt động "Mafia" của ông Dũng với đầy đủ vật chứng, nhân chứng, trong số đó có những người mà ông Dũng đã hết sức tin tưởng. 

Giống như nàng Kiều khi biết Sở Khanh là người của Tú Bà, ông Dũng không còn cách nào hơn là chấp nhận ký đơn xin rút khỏi danh sách ứng cử và lùi lại đi phía sau ông chánh tổng Trọng. Dù vậy, không thể coi thường ông Dũng cũng như lính và tướng của ông ta. Cả hai phía đều đi đến một sự thỏa thuận ngầm vì lẽ phía ông Trọng dù "thắng nhanh, thắng đẹp" thực lực ông Trọng có vẻ như "đồ mã" nhiều hơn, và chiêu "dĩ hòa vi quý" được đưa ra để bảo vệ sự toàn vẹn tạm thời của ĐCS. Phía ông Dũng cũng cần thời gian để thu dọn, cài cắm, và quan trọng nhất là "hạ cánh an toàn".

Chế độ cộng sản và một nền dân chủ thật sự không thể đứng chung, như nước và dầu, như ban ngày và ban đêm. Mơ ước, khao khát của một dân tộc cũng chỉ mãi là mơ ước chừng nào mà bất hạnh ra đi nhường chỗ cho sự xuất hiện những kỳ duyên. Có vẻ như ngày đó trước mắt vẫn còn xa...

Nguyên Đại
29/1/2016 

27 tháng 1 2016

Thủ Tướng và Khổng Tử

Thủ Tướng (TT) vào Viện Khổng Tử (KT) xin một quẻ. KT nói như vầy:
Đồng chí Tổng xử đồng chí tử
Đồng chí bất tử, tử đồng chí tử


TT hoang mang hỏi: Ngài có thể nói rõ thêm không ạ?

KT đáp: Ta từ bên Tàu. Ngày xưa ta đã nói: Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung (Vua bảo chết mà không chết là không trung). Quẻ hôm nay là như vậy, "thiên cơ bất khả lậu". Nói xong KT biến mất. 

Nguyễn Tấn Dũng thôi chức Thủ Tướng
TT tự nhủ KT dầu sao cũng là người Tàu chắc gì không thiên vị, thử hỏi một "Vietnamese" xem sao, rồi bảo đồ đệ đem một quyển Kiều tới. 

TT im lặng khấn vái rồi giở ngay, đọc:
"Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Thử xem con tạo xoay vần đến đâu"


Vẫn thấy mông lung quá, TT lại khấn và đọc:
"Nàng rằng: "phận gái chữ tòng"
Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi"


TT về phủ, gọi mười mấy cú điện thoại, và chiều quyết định ký đơn "xin rút".

Nguyên Đại
27/1/16

23 tháng 1 2016

Có Khi Nào?

Bùi Minh Quốc
Có khi nào trên đường đời tấp nập
Ta vô tình đã đi lướt qua nhau
Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất
Một tâm hồn ta đợi đã từ lâu


Bài thơ được bình chọn là một trong những bài thơ tình hay trong thi ca Việt Nam, có lẽ vì nó đúng với tâm trạng của hầu hết mọi người. Có ai trên đường xuôi ngược không chợt thấy một hình bóng mà mình rất đỗi yêu thích, để rồi...sóng thấm vào bờ cát.

Tác giả bài thơ là Bùi Minh Quốc. Ông sinh năm 1940, lớn lên ở Hà Nội. Sau Đại học, ông về làm việc ở đài phát thanh. Vợ ông là bà Dương Thị Xuân Quý, viết văn và làm báo. Hai người kết hôn năm 1966. Họ sinh được một đứa con gái duy nhất được đặt tên là Bùi Dương Hương Ly. Năm 1967, ông Quốc xung phong vào chiến trường miền Nam, lúc bé Ly được 6 tháng tuổi.

Một năm sau, bà Quý gởi đứa con gái cho mẹ, và vào Nam với chồng. Một năm sau đó, bà đã hy sinh ở Duy Xuyên, Quảng Nam, khi đụng độ với quân đội đồng minh Nam Hàn. Bài Thơ Hạnh Phúc, với bút hiệu Dương Hương Ly, là một một bài thơ ông Quốc viết với nước mắt yêu thương cùng với một lý tưởng "Giải Phóng Miền Nam", năm 1969.

I
Thôi em nằm lại
Với đất lành Duy Xuyên
Trên mồ em có mùa xuân ở mãi
Trời chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên.


Trời chiến trường không một phút bình yên
Súng nổ gấp. Anh lên đường đuổi giặc
Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên
Bước truy kích đạp trăm rào gai sắc


Ôi mũi lê này hôm nay sao sáng quắc
Anh mất em như mất nửa cuộc đời
Nỗi đau anh không thể nói bằng lời
Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy


Những viên đạn quân thù bắn em,
trong lòng anh sâu xoáy
Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi
Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc.

Nhưng em ạ, giây phút này chính lúc
Anh thấy lòng anh tỉnh táo lạ thường
Nhằm thẳng quân thù, mắt không giọt lệ vương
Anh nổ súng.

II
Hạnh phúc là gì? Bao lần ta lúng túng
Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi vẫn chưa ra
Cho đến ngày cất bước đi xa
Miền Nam gọi, hai chúng mình có mặt.

Nhớ chăng em, cái mùa mưa đói quay đói quắt
Mỗi bữa chia nhau nửa bát măng rừng
Em xanh gầy, gùi sắn nặng trên lưng
Môi tái ngắt, mái tóc mềm đẫm ướt


Bao giốc cao em cần cù đã vượt
Và mỗi lần ngồi nghỉ, em nhìn anh
Em nói tới tương lai tươi thắm ngọt lành
Em nói tới những điều em định viết


Giữa hai cơn đau em ngồi ghi chép
Con sông Giàng gầm réo miên man
Nước lũ về… Trang giấy nhỏ mưa chan
Em vẫn viết: lòng dạt dào cảm xúc.

Và em gọi đó là hạnh phúc…

Nhớ chăng em, ngày mở màn chiến dịch Đông Xuân
Em lên đường phơi phới bước chân
B.52 bom nghìn tấn dội
Kìa dáng em băng rừng bước vội
Vẫn nụ cười tươi tắn ấy trên môi.

Thôn 6 Bình Dương bãi cát sóng dồi
Nắng long lanh trong mắt người bám biển
Giặc mới lui càn khi em vừa đến

Bà mẹ già kể chuyện chặn xe tăng

Quanh những bờ dương bị giặc san bằng
Đã lại mở những chiến hào gai góc
Những em bé, dưới mưa bom, vẫn đi làm đi học
Những vồng khoai ruộng lúa vẫn xanh tràn
Trong một góc vườn cháy khét lửa Na-pan
Em sửng sốt gặp một nhành hoa cúc.
Và em gọi đó là hạnh phúc…


Như chồi biếc gặp mưa xuân, như chim én say trời
Em mải mê, đi giữa bao người
Xuyên Thọ, Xuyên Châu, Xuyên Hòa, Xuyên Phú…
Những mảnh đất anh hùng quyến rũ
Phút giây đầu đã ràng buộc đời em


Như tự lọt lòng từng biết mấy thân quen
Em nhỏ giao liên, mẹ hiền trụ bám
Cô du kích dịu dàng dũng cảm
Sông Thu Bồn hằng xao động tâm tư
Có tiếng hò như thực như hư
Em đã đến, tắm mình trong sóng nước
Sông kể em nghe chuyện đôi bờ thủa trước


Em mở mắt nhìn kinh ngạc những làng thôn
Và kêu lên khi được thấy cội nguồn
Mỗi sự tích trên đất này thắng Mỹ
Em đã gặp bao anh hùng dũng sĩ

Đã cùng họ sẻ chia
Cọng rau lang bên miệng hố bom đìa
Phút căng thẳng khi vòng vây giặc siết
Nỗi thống khổ ngút ngàn không kể hết
Của một thời nô lệ đau thương


Em lớn lên bên họ can trường
Giữa bom gào đạn réo
Em đã thấy những tâm hồn tuyệt vời trong trẻo
Những con người như ánh sáng lung linh
Mỗi đêm ra đi giản dị hiến mình
Để làm nên buổi mai đầy nắng


Em bối rối, em sững sờ đứng lặng
Vẻ đẹp này em chưa biết đặt tên
Thức dậy bao điều mới mẻ trong em
Nơi ngọn bút nghe cuộc đời thôi thúc.
Và em gọi đó là hạnh phúc…

III
Em ra đi chẳng để lại gì
Ngoài ánh mắt cười lấp lánh sau hàng mi
Và anh biết khi bất thần trúng đạn
Em đã ra đi với mắt cười thanh thản
Bởi được góp mình làm ánh sáng ban mai
Bởi biết mình có mặt ở tương lai.

Anh sẽ sống đẹp những ngày em chưa kịp sống
Sẽ yêu trọn những gì em chưa kịp yêu
Em trong anh là mùa xuân náo động
Từ phút này càng rực rỡ bao nhiêu.


Không cùng lý tưởng với tác giả, nhưng nhiều năm rồi, khi đọc lại những vần thơ này, tôi vẫn còn xúc động. Xúc động của tình yêu, con người đi qua chiến trang.

Tôi, đứng về phía bên kia chiến tuyến với ông. Tôi chia sẻ cùng ông, nỗi đau và mất mát của tất cả đồng bào Việt Nam, những nạn nhân của chiến tranh.

Một bài thơ khác của Bùi Minh Quốc cũng rất nổi tiếng trong thời chiến tranh, Đất Quê Ta Mênh Mông (1967), được phổ nhạc và hát vang trên nhiều đường phố miền Nam sau 1975:

Mẹ đào hầm từ thuở tóc còn xanh
Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc
Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác
Bao đêm rồi tiếng cuốc vọng năm canh.

Đất nước mình hai mươi năm chiến tranh
Tiếng cuốc năm canh nặng tình đất nước
Hầm mẹ giăng như lũy như thành
Che chở mỗi bước chân con bước

...

***

Sau năm 1975, Bùi Minh Quốc ở Đà Nẵng, làm Phó Chủ Tịch hội Văn Nghệ tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, Tổng biên tập Tạp chí Ðất Quảng.

Năm 1985, ông đến Đà Lạt và sau đó giữ chức Chủ Tịch Hội Văn Nghệ Lâm Đồng - Đà Lạt. Ông cùng đồng nghiệp thành lập tờ báo Lang Biang (lấy tên theo một câu chuyện thần thoại ở đây). Tờ báo hoạt động được 3 số, và sau đó bị đóng cửa; vì, theo lời ông, tờ báo đã "đăng tải những bài viết mà các vị lãnh đạo địa phương cũng như vĩ mô không hài lòng".

Nhà thơ Dương Hương Ly lừng lẫy một thời trên đường Trường Sơn đã viết:

Cay Đắng thay!
Cái guồng máy nhục mạ con người
Mang bộ mặt hiền lành của người cuốc đất
Ù lì quay
Quay


Thao thao bài đạo đức
Liệu mấy ai còn ngây?
Cay đắng thay
Mỉa mai thay
Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính cỗ máy này.


Ông (Tướng) Trần Độ đã trích dẫn bài thơ này trong Nhật Ký Rồng Rắn của mình.

Năm 1994, Bùi Minh Quốc viết Bài Thơ Tháng Tám, trong dịp kỷ niệm Cách Mạng Tháng Tám. Ông lại tự hỏi "Có lẽ nào?":

Các anh – những người Tháng Tám
Các anh đâu rồi? Thấm mệt rồi chăng?
Các anh nghĩ gì sau nếp nhăn vầng trán
“Thế sự du du…” thật giả nhập nhằng!…


Có lẽ nào? Có lẽ nào? Lịch sử
Lại như con thò lò trong ván bài quỷ dữ
Máu nhân dân tuôn chảy đúc ngai vàng
Bạo chúa ngồi lem lẻm tụng nhân dân?

Ơi em gái Trường Sơn mười tám tuổi
Cùng đồng đội đêm nao truy điệu sống cho mình
Và cứ thế dấn thân vào lửa dội
Em nghĩ gì sau cặp mắt kiên trinh?

Em nghĩ tới tương lai tươi thắm ngọt lành?
Tương lai ấy bây giờ tôi sống dở
Quay mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi

Tôi bước đi trên đất nước nghẹn lời
Các anh đâu rồi
Những người Tháng Tám?
Chẳng nhẽ khoanh tay nhìn tấn trò bội phản

Dân tộc này bị vỡ nợ Tự Do?
Dân tộc từng sống chết chẳng so đo
Quyết không làm nô lệ
Sao hôm nay Người đành cam chịu thế

Mặc thân phận mình dưới ách tà gian
“Việt Nam bao năm ròng rên xiết lầm than…”
Câu hát cũ lòng tôi rỉ máu
Kìa em gái Trường Sơn hiện hồn về nhìn tôi đau đáu

Tháng tám ơi! Tháng Tám nước non mình
Tôi lại đi, lầm lũi cuộc hành trình
Chỉ có thế thôi! Thơ
Với cường quyền
Ðối mặt

Sống trong tôi là triệu người đã khuất
Ðang thét đòi món nợ: Tự Do!


Những ngày này của năm 2016, dọc đường phố quê tôi có những bảng hiệu sặc sỡ "Nhiệt Liệt Chào Mừng...", hội trường đại hội ĐCS đỏ loét với tượng Karl Marx và Lenin, nhìn khuôn mặt của các "đồng chí lãnh đạo" khi sang Tàu dâng hoa, lúc nhìn vào nhau "đoàn kết", thấy các em học sinh vượt sông bằng dây "tử thần" cùng với những đêm trời đầy pháo bông, những người đi "cướp" của những người nghèo từng ổ bánh mì từ thiện, những em học sinh bị bạn đánh hội đồng tàn nhẫn dưới mái trường XHCN, tôi lại lẩm nhẩm: "Quay mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa. Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi", và cũng hỏi: "Có khi nào?".

Nguyên Đại
23/1/2016